Trong lễ ăn hỏi, lễ cưới của người Việt Nam, do ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa nên chữ Song Hỷ màu đỏ xuất hiện từ thiệp cưới, phông cưới đến vỏ hộp quà,… Chữ hỷ đám cưới còn được dán ở nhà, ngoài ngõ để thông báo với mọi người về đám cưới.
Song hỷ là gì?
Đám cưới thế hệ “ông bà anh”, hình ảnh đôi chim bồ câu, trầu cau, dòng chữ trang trí treo tường đã trở thành dấu ấu riêng. Đó là sự sáng tạo của người xưa để chọn ra một biểu trưng cưới hỏi cho đám cưới Việt.
Trong đó, biểu tượng đặc biệt ghi dấu ấn nhất vẫn là chữ hỷ. Nguồn gốc xuất phát từ phong tục cưới hỏi Trung Hoa. Ngày xưa, song hỷ mang ý nghĩa thể hiện hai niềm vui lớn: đại đăng khoa – thi đỗ làm quan và tiểu đăng khoa – cưới vợ.
Ngày nay, đôi chữ này biểu thị cho niềm vui cũng như sự chúc phúc của hai họ dành cho đôi uyên ương. Chữ “Hỷ”(囍) trong đám cưới được ghép lại từ 2 chữ “Hỷ” (喜) và được gọi là song hỷ. Chữ song có nghĩa là hai, hỷ mang ý nghĩa mừng vui. Khi ghép lại, song hỷ mang ý nghĩa niềm vui nhân đôi.
Bên cạnh đó, cụm từ “song hỷ lâm môn” cũng được dùng trong nhiều đám cưới Việt, đặc biệt là trong hôn lễ người gốc Hoa. Đó là niềm vui nhân đôi đã cùng nhau tới cửa, mang ý nghĩa không thể nào tốt đẹp hơn cho ngày vui của các đôi uyên ương.
Nguồn gốc và ý nghĩa chữ hỷ đám cưới
Chữ song hỷ trong đám cưới gắn với một giai thoại đẹp, đầy yếu tố may mắn, trời định về tình duyên, thi cử của bậc danh sĩ nổi tiếng đời nhà Tống, một trong “Đường Tống bát đại gia” – Vương An Thạch. Giai thoại về ông liên quan đến chữ song hỷ như sau:
Thuở nhỏ Vương An Thạch học rất giỏi, năm 20 tuổi lên kinh đô cách quê chừng 200 dặm để dự thi. Dọc đường Vương An Thạch đi qua một vùng trù phú. Nhà Mã Viên ngoại của vùng đang kén chồng cho con gái rất xinh đẹp. Viên ngoại là người có học nên muốn chọn rể giàu chữ làm hiền sĩ chứ không phải lắm của nhiều tiền.
Khi Vương An Thạch qua đó cũng là lúc Viên ngoại đang mở tiệc mừng thọ. Trong nhà treo đèn kết hoa rực rỡ, khách ra vào đông như hội. Bên ngoài cổng có treo một lồng đèn lớn, kẻ qua người lại xúm nhau xem xét, bàn tán. Vương An Thạch thấy lạ, ghé vào nhìn thì thấy trên đèn kéo quân dán một vế đối:
“Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ”
(Ngựa chạy theo đèn, đèn chạy theo ngựa, đèn tắt, ngựa dừng chân)
Chữ song hỷ gắn liền với một điển tích ý nghĩa của Trung Hoa.
Vương An Thạch nghĩ mãi không đối được, nhưng vẫn nói cứng: “Câu này dễ đối thôi”, rồi bỏ đi. Người nhà của Mã Viên ngoại nghe được, chưa kịp vào trình với Viên ngoại thì Vương An Thạch đã lên đường lên kinh đô.
Tại trường thi, Vương An Thạch làm bài thi xong, đem nộp quyển trước tiên. Quan chủ khảo lật ra xem, tấm tắc khen tài, vấn đáp ông trả lời trôi chảy đã có ý lấy ông đỗ đầu. Nhà vua cho vời ông vào triều để biết mặt và thử tài thêm. Thấy ở sân rồng có một lá cờ lớn, trên có thêu một con hổ, Vua ra cho ông một vế đối:
“Phi hổ kỳ, phi hổ kỳ, kỳ quyển hổ tàng thân”
(Hổ bay theo cờ, cờ bay theo hổ, cờ cuốn, hổ ẩn mình)
Vương An Thạch chợt nhớ tới vế đối trên đèn kéo quân trước nhà Mã Viên ngoại và thấy âm, ý rất hay và rất chỉnh khi đối với câu nay liền ứng khẩu đọc luôn:
“Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ”
Vua và chủ khảo thấy Vương có tài ứng đối mau lẹ, vế đối rất chỉnh, có ý nghĩa xuất sắc nên đã chấm Vương An Thạch đậu thủ khoa kỳ thi đó.
Trong khi chờ đăng tên lên bảng vàng, Vương An Thạch trở về quê nhà. Khi đi ngang qua Mã gia trang, người nhà của Mã Viên ngoại nhận ra Vương là người đã từng nói vế ra dán trên đèn kéo quân dễ đối, nên mời Vương vào nhà trình với Mã Viên ngoại. Mã Viên ngoại yêu cầu Vương An Thạch đọc vế đối, Vương liền lấy câu của Vua ra đọc lên thành:
“Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ
Phi hổ kỳ, phi hổ kỳ, kỳ quyển hổ tàng thân”
Chữ song hỷ trong trang trí đám cưới hiện đại 2018 cũng có nhiều biến tấu độc đáo.
Mã Viên ngoại vô cùng mừng rỡ, thấy vế đối rất chỉnh, rất khéo lại ẩn ý khoe tương lai nên nói với Vương An Thạch rằng: “Vế đối dán trên đèn kéo quân là của con gái lão, nó kén chồng nên thách đối như thế, nếu ai đối được nó mới đồng ý lấy làm chồng. Để lão gọi con gái lão ra cho hai đàng giáp mặt. Sau đó đám cưới được tổ chức linh đình tại Mã gia trang”.
Vương An Thạch cưới được vợ tài giỏi và giàu có, ở luôn tại nhà Mã Viên ngoại.
Ngay liền trong ngày đó, triều đình đăng bảng, Vương An Thạch đậu Trạng nguyên, được triều đình gọi lên kinh đô nhậm chức.
Thế là chàng họ Vương nhờ may mắn mà đạt được một lượt hai điều vui mừng: cưới được vợ tài giỏi giàu có và đậu Trạng nguyên.
Vương An Thách bèn hứng chí ngâm nga:
Vận may đối đáp thành song hỷ
Cờ hổ, đèn quân kết vợ chồng
Sau đó lấy giấy viết hai chữ hỷ rất to trình lên nhạc gia và gửi về gia đình mỗi nhà một bản. Thông báo lại hai việc cực kỳ may mắn, tốt lành là đại đăng khoa (thi đỗ) và tiểu đăng khoa (lấy vợ).
Với việc viết hai chữ hỷ đám cưới liền nhau đọc là “song hỷ”, vị Trạng nguyên tài danh này đã sáng tạo ra một chữ mới, chữ song hỷ. Như vậy, nguồn gốc của chữ song hỷ là do điển tích vừa cưới được vợ đẹp giỏi, vừa thi đậu Trạng nguyên.
Ngày nay, chữ song hỷ vẫn là hình ảnh quen thuộc trong những hôn lễ Việt. Với ý nghĩa tốt đẹp, cách dán chữ đám cưới này luôn có một chỗ đứng vững chắc trong lòng các đôi uyên ương. Chúng như thể hiện lời chúc phúc của hai bên gia đình về một cuộc sống hôn hạnh phúc và đầy ấp niềm vui cho các đôi vợ chồng son.
Không chỉ thế, song hỷ còn xuất hiện trong những mẫu thiệp cưới đẹp, phông cưới đến vỏ hộp bánh cốm, chè, hạt sen, quả cau, lá trầu…Trong đó, thiệp cưới chữ song hỷ luôn là sự lựa chọn hàng đầu của các cặp đôi để tạo ấn tượng đầu tiên với những vị khách quý.
Chữ hỷ đám cưới còn mang ý nghĩa cho hai việc vui mừng song song với nhau, nhà trai cưới được vợ cho con trai, nhà gái gả được chồng cho con gái. Và cũng được các cặp đôi ưa chuộng cho ngày trọng đại của đời mình.
Anh Phương Jewelry